Bản đồ ngành đồng hồ cao cấp năm 2022
Cần bao nhiêu người để chế tạo một chiếc đồng hồ?
Đâu là cách thức khách quan nhất để phân loại các thương hiệu đồng hồ cao cấp với nhau. Bạn có thể phân loại các thương hiệu dựa trên các kỹ thuật sản xuất, nhưng điều đó không hề dễ dàng. Trong bài viết này, chúng ta hãy nhìn vào trung bình số giờ mà các thương hiệu/thợ đồng hồ đầu tư để hoàn thành một chiếc đồng hồ. Mặc dù đây không phải là một số liệu hoàn hảo, chỉ là những con số mang tính định lượng, nhưng chúng đều được lấy từ thông tin có sẵn công khai.
Sẽ có hơn 50 thương hiệu đồng hồ sang trọng đến từ các quốc gia như Thụy Sĩ, Đức và Nhật Bản xuất hiện trong bài viết này (bài viết được biên tập từ Sjx).
Số giờ được sử dụng để phân loại là số giờ tối đa, theo lý thuyết mà những người thợ đồng hồ của một thương hiệu có thể dành cho mỗi chiếc đồng hồ. Ví dụ, Ferdinand Berthoud có thể đầu tư tới 643 giờ chế tác cho mỗi chiếc đồng hồ. Đây là mức cao nhất, có nghĩa là số giờ thực tế mà một người thợ đồng hồ dành cho mỗi chiếc đồng hồ sẽ ít hơn một chút, mặc dù nó vẫn sẽ là một con số cao. Điều này là hợp lý khi mỗi chiếc đồng hồ của thương hiệu này cần tới hơn 100 giờ hoàn thiện bằng tay.
Đỉnh cao: Trên 300 giờ
Ở cấp cao nhất, mỗi người thợ của các thương hiệu này sản xuất không đến 5 chiếc đồng hồ mỗi năm, bởi vậy một chiếc đồng hồ của 15 thương hiệu trong danh mục này cần trung bình 834 giờ chế tạo. Các nhà sưu tập thường gọi các thương hiệu trong danh mục này là “độc lập” nhưng thuật ngữ này thiếu độ chính xác; không phải tất cả các thương hiệu này đều thực sự độc lập, trong khi một số thương hiệu bên dưới trong danh sách thì có.
Với quy trình sản xuất được tổ chức dựa trên trình độ thủ công cao, sản lượng đồng hồ của 15 thương hiệu top đầu sẽ hạn chế. Nói một cách dễ hiểu, 15 thương hiệu có trong danh sách này tạo ra ít hơn 500 chiếc đồng hồ mỗi năm. Mặt khác, Rolex sản xuất hơn 2.000 chiếc đồng hồ mỗi ngày.
Cũng trong danh mục này, đồng hồ đôi khi được gọi là "thủ công" (handmade), nhưng thuật ngữ này có một chút thiếu chính xác. Với một vài ngoại lệ, những chiếc đồng hồ được bắt đầu bằng phần mềm CAD, các thành phần lớn hơn khung chính và cầu nối được sản xuất bằng máy tiện CNC, gia công phóng điện và các phương pháp hiện đại khác.
Nâng tầm giá trị của những chiếc đồng hồ từ các thương hiệu này lại đến từ các công đoạn đằng sau. Các bánh xe, bánh răng nhỏ thường được sản xuất bằng máy tiện vận hành bằng tay, mặt số có vân guilloche cũng là một tác phẩm được làm từ đôi bàn tay của con người. Tiếp theo đó, yếu tố hoàn thiện phức tạp như đánh bóng đen, đánh bóng góc trong cùng bất kỳ tính năng phức tạp kỳ lạ (như remontoir) và các bộ thoát kỳ lạ sẽ có trong những chiếc đồng hồ của các thương hiệu này.
Bộ máy được hoàn thiện kỹ lưỡng của Sylvain Pinaud Origine
Với số lượng sản xuất hàng năm là cực kỳ nhỏ, phần lớn các thương hiệu này mỗi năm chỉ tung ra một hoặc hai bộ máy, model đồng hồ khác nhau. Trường hợp ngoại lệ là Greubel Forsey, công ty đã đạt được quy mô (khoảng 115 người) cần thiết để duy trì sản xuất một số mẫu và chức năng phức tạp khác nhau bao gồm lịch vạn niên, grande sonnerie và đồng hồ giờ thế giới.
Greubel Forsey Hand Made 1
Artisanal-industrial (Thủ công-Công nghiệp): 100-299 giờ
Ở phân loại tiếp theo là các thương hiệu mà mỗi nhân viên có thể tạo ra trung bình từ 6 đến 20 chiếc đồng hồ mỗi năm, theo đó, một chiếc đồng hồ cần tối đa từ 100 đến 299 giờ chế tạo. Phân loại này có hai tên tuổi dẫn đầu là A. Lange & Söhne và FP Journe.
Ở cấp độ này, đồng hồ được hoàn thiện bằng tay tốt; thép được đánh bóng đen xuất hiện phổ biến và vẫn có thể tìm thấy các góc bên trong, mặc dù ở mức độ thấp hơn. Trong số các thương hiệu có thể duy trì một bộ sưu tập đầy đủ có tính năng phức tạp khác nhau (đồng hồ bấm giờ, tourbillon, điểm chuông, lịch vạn niên và đồng hồ giờ thế giới), Lange và Journe là những thương hiệu có sản phẩm mang tính thủ công nhất, với công suất lần lượt lên tới 212 và 264 giờ chế tác cho mỗi chiếc đồng hồ.
Bộ máy đồng hồ A. Lange & Sohne Zeitwerk Striking Time
Sự hiện diện của Montblanc trong danh mục này có thể gây sốc cho một số độc giả, nhưng đây chỉ là tỷ lệ cho các sản phẩm cao cấp của thương hiệu tại cơ sở Minerva ở Villeret, nơi mà một chiếc đồng hồ cần tới 196 giờ chế tác. Ngược lại, bộ sưu tập cốt lõi tại xưởng chế tác hiện đại của Montblanc, một thợ đồng hồ dành ra không quá 3 giờ cho mỗi chiếc đồng hồ.
Bộ máy đồng hồ Montblanc Villeret, thứ mà bạn sẽ không tìm thấy ở các cửa hàng sân bay phổ biến của thương hiệu
Một ngoại lệ khác trong phân khúc này là Urwerk. Trong khi hầu hết các thương hiệu trong danh mục có sản lượng giới hạn vì phải đầu tư vào quá trình hoàn thiện thì ở Urwerk, quá trình hoàn thiện mang tính công nghiệp hơn so với các thương hiệu cùng ngành. Thay vào đó, sản lượng sản phẩm của Urwerk bị hạn chế bởi hãng tập trung vào kỹ thuật nghiên cứu, chế tạo mặt số, cấu trúc vỏ mới.
Haute Horlogerie công nghiệp: 30-99 giờ
Danh mục tiếp theo chứa đựng hầu hết các thương hiệu đồng hồ cao cấp nổi tiếng, bao gồm cái gọi là “bộ ba thần thánh”: Patek Philippe, Audemars Piguet và Vacheron Constantin. Những thương hiệu này được đánh giá cao vì đã giữ cho truyền thống của chế tạo đồng hồ chất lượng (haute horlogerie) tồn tại trong suốt phần lớn thế kỷ 20. Nhưng như bản đồ cho thấy, đã có những thương hiệu mới, trẻ tuổi nhưng xuất sắc hơn trong 30 năm qua.
Nhiều thương hiệu trong danh mục này đã thành thạo nghệ thuật sản xuất đồng hồ hoàn thiện cao, nhưng ở quy mô công nghiệp. Điều này liên quan đến việc sử dụng máy móc cho hầu hết các công đoạn hoàn thiện, được tô điểm thêm bằng việc hoàn thiện thủ công ở những khu vực quan trọng có tác động thị giác lớn nhất. Một vài ví dụ đến từ vát bóng các góc bên trong, nhưng không phổ biến; hay thép đánh bóng đen hiếm khi được tìm thấy.
Đáng chú ý là Patek Philippe, sử dụng 1.600 nhân viên và sản xuất khoảng 68.000 chiếc đồng hồ mỗi năm, cho thấy mỗi chiếc đồng hồ cần tối đa 38,6 giờ chế tạo. Riêng sản xuất đồng hồ cơ của Patek, con số này đã lên gần 50 nhưng vẫn thua hầu hết các đối thủ.
Ví dụ, nhiều nhà sưu tập phàn nàn về việc không có bất kỳ góc nhọn trong nào trong bộ máy của chiếc ref. 5236 lịch vạn niên mới. Nhưng thực tế, trung bình chưa đến 50 giờ chế tác là không đủ để thêm vào những cách thức hoàn thiện này cho mỗi chiếc đồng hồ 5236. Bởi vậy, chỉ những chiếc đồng hồ cao cấp hơn của Patek Philippe mới có các góc trong được hoàn thiện kỹ. Mặc dù sự thiếu vắng này hơi làm thất vọng các nhà sưu tầm nhưng tính hoàn thiện nói chung trong các bộ máy của Patek Philippe vẫn ở top đầu.
Một phần của bộ máy trong chiếc Patek Philippe 5236
Ngược lại, Audemars Piguet hiện sản xuất khoảng 48.000 chiếc đồng hồ mỗi năm với khoảng 2.000 nhân viên (tối đa 72,9 giờ chế tạo cho mỗi chiếc đồng hồ). Con số ấn tượng này cũng đòi hỏi phải phân chia các góc bên trong có trong các bộ máy, mặc dù chúng có thể được tìm thấy nhiều hơn so với Patek.
Audemars Piguet gần đây đã công bố kế hoạch tăng sản lượng lên khoảng 65.000 đồng hồ mỗi năm vào năm 2027. Sẽ rất thú vị để xem thương hiệu đáp ứng các mục tiêu tăng trưởng này như thế nào; nếu họ đạt được mức tăng về số lượng này với số lượng nhân viên hiện tại, điều đó sẽ làm giảm tỷ lệ làm việc của họ, tiệm cận với vị trí của Patek Philippe ngày nay.
Bộ máy 4409 của thương hiệu Audemars Piguet
Một ngoại lệ trong danh mục này là Richard Mille, một thương hiệu nổi bật không chỉ với mức giá bán lẻ trung bình cao là 226.000 USD mà còn nhờ vào việc thuê các nhà cung cấp bên ngoài sản xuất hầu hết các bộ máy của mình. Mặc dù Richard Mille gần đây đã giới thiệu bộ máy nội bộ đầu tiên của mình, caliber CRMC1, nhưng hầu hết đồng hồ của thương hiệu này đều sử dụng bộ máy của Vaucher và Audemars Piguet Renaud & Papi (APRP).
Những bộ chuyển động này được sản xuất và hoàn thiện bởi các nhà cung cấp tương ứng trước khi được đem đi lắp ráp, thử nghiệm và đóng vỏ tại cơ sở riêng của Richard Mille. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu số giờ chế tác thêm vào từ đơn vị thứ ba có thay đổi phân khúc của thương hiệu hay không?
Để đáp ứng được yêu cầu, APRP và Vaucher sẽ cần có hơn 100 nhân viên chỉ chuyên trách các bộ máy của Richard Mille. Tuy nhiên, theo suy đoán, không có khả năng các công ty kể trên có nhiều nhân viên như vậy chỉ vì Richard Mille. Có lẽ APRP và Vaucher nằm cùng phân khúc với Audemars Piguet và Parmigiani.
Industrial fine watchmaking: 10-29 giờ
Đây là phần đáng ngạc nhiên nhất của thị trường. Từ những chiếc đồng hồ phá kỷ lục siêu mỏng của Bulgari đến bộ thoát Ulysse Anchor có lực liên tục của Ulysse Nardin và các thiết kế Bauhaus vui tươi của Nomos, những thương hiệu này làm mọi thứ theo cách riêng.
Mặc dù phân khúc này chỉ tạo khoảng 200.000 chiếc đồng hồ hàng năm, nhưng các thương hiệu thuộc phân khúc này lại mang đến nhiều sự đổi mới và sáng tạo hơn tất cả. Và mặc dù có nguồn gốc từ thế kỷ 19, nhiều thương hiệu trong số này còn bỏ qua các quy tắc cứng nhắc của giới haute horlogerie, thay vào đó tập trung vào việc vượt qua ranh giới của ngành chế tạo đồng hồ công nghiệp.
Jaeger-LeCoultre có thể nằm trong phân loại 30-99 giờ, nhưng thương hiệu này sản xuất 95.000 chiếc đồng hồ mỗi năm với số lượng nhân viên khoảng 1.200. Điều này có nghĩa là mỗi chiếc đồng hồ cần tối đa 20 giờ chế tạo. Bí quyết kỹ thuật của thương hiệu thể hiện rõ ở chỗ JLC có thể sản xuất rất nhiều đồng hồ với độ hoàn thiện ngang bằng với các đối thủ như Glashütte Original, đồng thời tạo ra nhiều loại phức hợp khác thường như Reverso Tribute Gyrotourbillon được hoàn thiện thủ công.
Một bất ngờ khác là Zenith, thương hiệu mà cần tối đa 29 giờ chế tạo cho một chiếc đồng hồ. Zenith có xu hướng cạnh tranh về giá với Rolex và IWC, nhưng dữ liệu chỉ ra rằng số giờ lao động để sản xuất mỗi chiếc đồng hồ nhiều gấp khoảng sáu lần so với các đối thủ này. Mặc dù Zenith tạo ra những chiếc đồng hồ xuất sắc, nhưng thật khó để biết nỗ lực lao động bổ sung này sẽ tạo ra kết quả như thế nào.
Nomos là một thương hiệu nổi bật trong phân loại này do mức giá trung bình thấp. Nomos được hưởng lợi từ “Glashüttenomics” giống như Lange và Glashütte Original, nên chi phí lao động thấp hơn so với nước láng giềng Thụy Sĩ. Có nghĩa là thương hiệu có thể đủ khả năng đầu tư nhiều thời gian hơn vào mỗi chiếc đồng hồ, nâng cao trình độ thủ công (và cả giá trị) so với các đối thủ Thụy Sĩ có giá tương tự.
Industrial prowess (Sản xuất công nghiệp): 1-9 giờ
Hầu hết các thương hiệu đồng hồ sang trọng quy mô lớn đã xây dựng các quy trình sản xuất để dành không quá 9 giờ cho mỗi chiếc đồng hồ. Những tên tuổi lớn như Rolex, Omega, IWC, Cartier và Grand Seiko có thể dành tối đa 3-6 giờ cho mỗi chiếc đồng hồ.
Để tìm cách thu hút khán giả phổ thông, các thương hiệu này có xu hướng tuân theo các quy tắc thẩm mỹ được xác định rõ ràng đã phát triển qua nhiều thập kỷ. Cho dù đó là Rolex Submariner, Cartier Tank, Omega Speedmaster hay Breitling Navitimer, tính trung thực của lịch sử và vị trí rõ ràng là yếu tố then chốt. Quan hệ đối tác nổi tiếng và đại sứ hạng A là điều các thương hiệu này theo đuổi.
Những thương hiệu này có thể sản xuất số lượng lớn đồng hồ chất lượng cao nhờ đầu tư vào cơ sở sản xuất hiện đại, đi đầu về tự động hóa trong lĩnh vực chế tạo đồng hồ. Trong khi khâu lắp ráp cuối cùng chủ yếu là thủ công, quá trình sản xuất, hoàn thiện và thử nghiệm được thực hiện theo số lượng lớn bằng các phương pháp tự động là chủ yếu.
Nhưng điều đó không có nghĩa là sản phẩm của họ kém chất lượng hơn các thương hiệu ở phân loại bên trên. Một trong những mâu thuẫn lớn trong chế tạo đồng hồ là thực tế là các thương hiệu công nghiệp sản xuất đồng hồ với ít sự tham gia của con người nhất có xu hướng có các yêu cầu nội bộ khắt khe nhất về độ chính xác và cũng có thời gian bảo hành dài nhất.
Kiểm tra lô 100 chiếc đồng hồ tại Tudor, khay này có thể chứa tổng sản lượng đồng hồ hàng năm của Kari Voutilainen, Roger Smith, Akrivia, Bexei và Raul Pages cộng lại.
Trong một danh mục đầy những thương hiệu sản xuất hàng trăm nghìn chiếc đồng hồ mỗi năm, Grand Seiko là một ngoại lệ, với sản lượng hàng năm khoảng 45.000 chiếc đồng hồ. Mặc dù khối lượng này có vẻ gần như thủ công bên cạnh một thương hiệu như Rolex, nhưng Grand Seiko vẫn đi đầu trong việc sản xuất hàng loạt trong số các thương hiệu được nghiên cứu. Giả sử một tuần làm việc theo luật định điển hình, Grand Seiko có thể đầu tư không quá 3,8 giờ cho mỗi chiếc đồng hồ.
Để có sự so sánh thực sự giữa các loại, tôi đã loại trừ các bộ máy quartz và Spring Drive, chỉ tập trung tới quá trình sản xuất đồng hồ cơ của Grand Seiko cho thấy rằng, 60 người thợ sản xuất 30.000 chiếc đồng hồ hàng năm.
Xưởng nghệ nhân
Như bên trên đã từng đề cập, lấy số giờ cần thiết tối đa để chế tạo một chiếc đồng hồ không phải cách thức hoàn hảo để phân loại các thương hiệu, tạo ra một bản đồ ngành hoàn chỉnh. Một trong những vấn đề là chúng ta đang gộp toàn bộ quá trình sản xuất của một thương hiệu thành một con số duy nhất, làm xáo trộn sự khác biệt giữa các bộ sưu tập khác nhau của chính thương hiệu.
Đây là một vấn đề bởi vì nhiều thương hiệu cho phép các xưởng thủ công trong các nhà sản xuất của họ hoạt động bán độc lập và sản xuất đồng hồ với cơ chế rất khác so với các tổ chức rộng lớn hơn.
Như chiếc Patek Philippe ref. 5959, cần ít nhất 200 giờ chế tác để làm ra mỗi chiếc đồng hồ, nhưng các sản phẩm công nghiệp hơn của thương hiệu chiếm phần lớn trong tổng số hơn 60.000 chiếc đồng hồ được sản xuất hàng năm
Lấy ví dụ, ở đây là trường hợp của xưởng sản xuất Micro Artist Studio, Seiko và xưởng sản xuất Minerva, Montblanc. Những sản phẩm được tạo ra từ hai xưởng chế tác trên hoàn toàn có thể phân Seiko và Montblanc thành những thương hiệu độc lập trên bản đồ đồng hồ cao cấp.
Số giờ chế tác và giá cả
Kết hợp số giờ chế tác và giá đồng hồ cũng là một cách phân loại các thương hiệu đồng hồ cao cấp thành một nhóm với nhau. Biểu đồ bên dưới thể hiện: các thương hiệu nào có quyền định giá bán cao hơn hay cao nhất trên thị trường dựa trên số giờ tiêu tốn lên một chiếc đồng hồ.
Glashütte Original là ông vua giá trị, 78 USD cho mỗi giờ chế tác. Ba ông lớn trong ngành: Patek Philippe với mức 773 USD cho mỗi giờ làm việc của thợ đồng hồ, Audemars Piguet với mức 540 USD cho mỗi giờ làm việc của thợ đồng hồ còn Vacheron Constantin thì là 408 USD cho mỗi giờ làm việc của thợ đồng hồ. Con số này ở tại A Lange & Sohne và FP Journe lần lượt là 198 USD và 225 USD.
Các thương hiệu ở càng gần cùng màu đỏ thì tính phí càng cao nếu dựa trên số giờ chế tác
Mặc dù có vẻ phản trực giác, nhưng các thương hiệu phổ thông như Rolex, Omega, IWC, Cartier, Breitling, Hermes và Montblanc đều tính phí cao hơn so với các thương hiệu đồng hồ cao cấp haute horlogerie dựa trên số giờ chế tác. Giá trung bình của đồng hồ từ các thương hiệu này thấp hơn nhiều, nhưng hiệu quả sản xuất cực cao của dẫn đến những chiếc đồng hồ có giá hơn 1.000 USD cho mỗi giờ chế tác.
Nhìn vào lịch sử
Những con số này có thêm ý nghĩa khi đặt vào bối cảnh lịch sử.
Theo dữ liệu được biên soạn bởi Giáo sư Pierre-Yves Donzé, Louis Brandt & Frère đã sản xuất 100.000 chiếc đồng hồ bỏ túi với 600 nhân viên vào năm 1890. Giả sử ngày làm việc 12 giờ (thời đó giờ làm việc dài hơn nhiều ), con số này tính ra tối đa là khoảng 17 giờ chế tác cho mỗi chiếc đồng hồ. Điều này tương tự với đối thủ Longines, có thể đầu tư tối đa 20 giờ cho mỗi chiếc đồng hồ vào năm 1901 và 19 giờ chế tác vào năm 1905.
Đến năm 1914, Louis Brandt & Frère đã được đổi tên thành Omega (để vinh danh bộ máy đồng hồ bỏ túi hàng đầu của hãng) và giảm số giờ chế tác đồng hồ tối đa trên mỗi chiếc đồng hồ xuống còn khoảng 12 giờ, với 935 nhân viên sản xuất khoảng 235.000 chiếc đồng hồ hàng năm.
Tuy nhiên, cả Omega và Longines đều không thể sánh được với hiệu quả sản xuất của Tavannes, công ty đã nhập khẩu thiết bị sản xuất đồng hồ của Mỹ, tính đến năm 1913, một thợ có thể sản xuất 2,6 chiếc đồng hồ mỗi ngày, tức là tối đa khoảng 5 giờ chế tác.
Ngày nay, nhờ những tiến bộ hiện đại trong thiết kế và sản xuất có sự hỗ trợ của máy tính, các nhà sản xuất đồng hồ xa xỉ chính thống có thể sản xuất hàng triệu chiếc đồng hồ mỗi năm chỉ với vài giờ chế tác cho mỗi chiếc đồng hồ, đồng thời mang lại độ chính xác và độ bền được cải thiện đáng kể.
Một góc xưởng chế tác hiện đại của thương hiệu IWC
Tổng kết
Được nhìn qua lăng kính của những người thợ đồng hồ, ngành công nghiệp chế tạo trở thành tiêu điểm. Các danh mục không được xác định rõ ràng trước đây như “độc lập” và haute horlogerie giờ đây có thể được xác định một cách khách quan hơn, với các đường được vẽ theo quy mô có thể định lượng.
Nhưng liệu chúng ta chỉ nhìn vào thương hiệu để đánh giá sẽ là khách quan? Thực tế, các nhà sưu tập nên nhìn nhận, đánh giá một chiếc đồng hồ dựa trên giá trị riêng của từng chiếc. Bản đồ về thị trường đồng hồ cao cấp sẽ hữu ích trong việc hình dung từng nhóm thương hiệu để điều chỉnh kỳ vọng về các sản phẩm của hãng. Hoặc hữu ích cho những người đam mê mới, lựa chọn để tìm đến những thương hiệu an toàn.
Akrivia dưới 30 chiếc đồng hồ mỗi năm
Bản đồ này làm nổi bật sự khác biệt lớn về kinh tế giữa các thương hiệu lớn và nhỏ, đồng thời minh họa các ngưỡng thủ công khác nhau. Nó cũng cho thấy bản chất khác nhau của tính độc quyền trong toàn ngành. Một số thương hiệu được khao khát nhất về tính độc quyền, như Patek Philippe và Rolex, đã có thể duy trì hình ảnh trong nhiều năm mặc dù số lượng sản xuất lớn. Ngược lại, đồng hồ từ các thương hiệu đứng đầu bảng vốn đã độc quyền hơn do phương pháp sản xuất của họ, điều này giới hạn số lượng đồng hồ có thể được sản xuất chỉ còn một vài chiếc mỗi năm.
Bản đồ cũng nêu bật một điểm quan trọng khác. Nếu số giờ thợ sửa đồng hồ của một thương hiệu thấp một cách đáng ngạc nhiên, điều đó có nghĩa là thời gian dành cho việc chế tác thủ công ít hơn hoặc nhiều công việc được thực hiện bởi bên thứ ba hơn so với công bố.
Mặc dù thật hấp dẫn khi xem từng phân khúc là đồng nhất, nhưng vẫn có chỗ cho sự khác biệt đáng kể trong mỗi cấp. Không phải tất cả các thương hiệu đều tiếp cận vốn, sở hữu trí tuệ hoặc chuyên môn như nhau. Bí quyết công nghiệp của một số thương hiệu có nghĩa là họ có thể đạt được nhiều hơn nữa với mỗi giờ chế tác đồng hồ.
Điều này đặc biệt đúng đối với phần dưới cùng của kim tự tháp, nơi đồng hồ nhận được ít sự tham gia của con người hơn; khi một chiếc đồng hồ được chế tạo chủ yếu bằng máy móc, khả năng khác biệt của những máy móc đó thực sự quan trọng.
Ví dụ, Tudor đã được hưởng lợi rất nhiều từ chuyên môn công nghiệp của công ty mẹ, Rolex. Từng là một thương hiệu con phụ thuộc vào các bộ máy của bên thứ ba, Tudor giờ đây đã vượt xa quy mô của mình và cung cấp sản phẩm chất lượng cao hơn các thương hiệu như Breitling và Panerai, mặc dù mức giá trung bình thấp hơn.
Một quan sát cuối cùng chỉ đơn giản là quy mô áp đảo của các thương hiệu lớn hơn. Tổng cộng, hơn 50 thương hiệu được phân tích đã sản xuất khoảng 3,75 triệu đồng hồ mỗi năm với tối đa khoảng 34 triệu giờ chế tác (trung bình khoảng 9 giờ chế tác cho mỗi chiếc đồng hồ). Nhưng ở mức cao nhất, các thương hiệu như Greubel Forsey, Roger Smith và Bexei có thể chi hơn 1.500 giờ chế tác cho mỗi chiếc đồng hồ, nâng mức trung bình cho mẫu này lên khoảng 75 giờ chế tác của thợ đồng hồ.
Dữ liệu
- Đối với số liệu sản xuất và giá bán lẻ trung bình, dựa vào báo cáo ngành đồng hồ năm 2022 của Morgan Stanley và LuxeConsult, dữ liệu do các thương hiệu cung cấp và các cuộc phỏng vấn đã công bố với giám đốc điều hành thương hiệu.
- Đối với dữ liệu về số lượng nhân viên, dựa vào dữ liệu do các thương hiệu cung cấp, các cuộc phỏng vấn đã xuất bản và báo cáo trực tiếp từ các chuyến thăm sản xuất. Trường hợp không tìm thấy dữ liệu, tôi đã sử dụng các ước tính của riêng mình.
- Các thương hiệu được sắp xếp theo sản lượng ước tính hàng năm từ cao xuống thấp trong mỗi phân khúc.
- Vì không phải tất cả nhân viên đều là thợ đồng hồ, nên mô hình giả định rằng 85% tổng số nhân viên là thợ đồng hồ sản xuất (một giả định hào phóng). Trong trường hợp biết được số lượng thợ đồng hồ thực sự, việc điều chỉnh này không được thực hiện.